Thuật ngữ được sử dụng trong động lực học chất lưu Động_lực_học_chất_lưu

Khái niệm về áp suất là trung tâm nghiên cứu của cả tĩnh học chất lưu và động lực học chất lưu. Áp suất có thể được xác định cho mỗi điểm trong một chất lưu, bất kể là chất lưu đang chuyển động hay không chuyển động. Áp suất có thể được đo bằng hộp đo khí áp, ống Bourdon, cột thủy ngân, hoặc các phương pháp khác.

Một số thuật ngữ cần thiết trong việc nghiên cứu động lực học chất lưu không tìm thấy được ở các lĩnh vực nghiên cứu tương tự khác. Đặc biệt, một số thuật ngữ được sử dụng trong động lực học chất lưu không được dùng trong tĩnh học chất lưu.

Thuật ngữ trong động lực học chất lưu không nén được

Các khái niệm về tổng áp suất và áp suất động học bắt nguồn từ phương trình Bernoulli và chúng rất quan trọng trong việc nghiên cứu các dòng chất lưu. (Hai loại áp suất này không phải là áp suất thông thường – chúng không thể đo được bằng hộp đo khí áp, ống Bourdon, hay cột thủy ngân). Để tránh sự nhầm lẫn khi đề cập đến áp suất trong động lực học chất lưu, nhiều tác giả sử dụng cụm từ áp lực tĩnh để phân biệt với tổng áp suất và áp suất động. Áp suất tĩnh hay đơn giản là áp suất, có thể được xác định tại mỗi điểm trong một trường dòng chảy chất lưu.

Trong Khí động học, L.J. Clancy viết:[8] Để phân biệt áp suất tĩnh với tổng áp suất và áp suất động, áp suất thực tế của chất lưu không liên quan đến chuyển động mà phụ thuộc vào trạng thái của chất lưu, thường được gọi là áp suất tĩnh, nhưng nếu chỉ nói áp suất thì tức là đang đề cập đến áp suất tĩnh này.

Một điểm trong một dòng chảy chất lưu mà tại đó dòng chảy đã ngừng chảy (nghĩa là tốc độ bằng không, ví dụ như tại các điểm liền kề với một số vật thể rắn chìm trong dòng chất lưu) có một ý nghĩa đặc biệt. Vì tầm quan trọng của nó mà nó được đặt tên riêng là – Điểm ứ đọng. Áp suất tĩnh tại điểm ứ đọng được đặt tên riêng là – Áp suất ứ đọng. Trong các dòng chảy không nén được, áp suất ứ đọng tại một điểm ứ đọng bằng với tổng áp xuyên suốt trường dòng chảy.

Thuật ngữ trong động lực học chất lưu nén được

Trong một chất lưu nén được, chẳng hạn như không khí, nhiệt độ và mật độ là rất cần thiết khi xác định trạng thái của chất lưu. Ngoài khái niệm tổng áp suất (còn gọi là áp suất ứ đọng), các khái niệm về tổng nhiệt độ (hay nhiệt độ ứ đọng) và tổng mật độ (hay mật độ ứ đọng) cũng rất cần thiết trong bất kỳ nghiên cứu nào về dòng chảy chất lưu nén được. Để tránh nhầm lẫn khi đề cập đến nhiệt độ và mật độ, nhiều tác giả sử dụng các thuật ngữ nhiệt độ tĩnh và mật độ tĩnh. Nhiệt độ tĩnh tức là nhiệt độ; và mật độ tĩnh cũng tức là mật độ; cả hai có thể được xác định tại mỗi điểm trong một trường dòng chảy chất lưu.

Nhiệt độ và mật độ tại một điểm ứ đọng được gọi là nhiệt độ ứ đọng và mật độ ứ đọng.

Một cách tiếp cận tương tự cũng được thực hiện với các thuộc tính nhiệt động lực học của chất lưu nén được. Nhiều tác giả sử dụng các thuật ngữ tổng enthalpy (hay enthalpy ứ đọng) và tổng entropy (hay entropy ứ đọng). Các thuật ngữ enthalpy tĩnh và entropy tĩnh xuất hiện ít phổ biến hơn, nhưng nếu được sử dụng thì chúng có nghĩa là enthalpy và entropy, sử dụng tiền tố "tĩnh" để tránh nhầm lẫn với 'tổng' enthalpy/ entropy (hay enthalpy/ entropy 'ứ đọng'). Bởi vì các điều kiện dòng chảy 'tổng hợp' được định nghĩa theo đẳng entropy đưa chất lỏng về trạng thái tĩnh, tổng entropy (hay entropy ứ đọng) theo định nghĩa luôn bằng với entropy "tĩnh".